Chuyên mục này dự kiến phục vụ thiết kế chương trình đào tạo và thực hành kỹ năng truyền thông, áp dụng ngữ dụng học (pragmatics), dựa trên các tình huống cụ thể.
Các bài chia sẻ kỹ năng đầu tiên sẽ khảo sát một bài báo đăng trên website của Công ty Cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao (LAS) lấy từ đường dẫn https://supelamthao.vn/temp/30-muc-tieu-phat-trien-ben-vung, mang tên ‘Bảo vệ môi trường và hơn thế nữa. Supe Lâm Thao ưu tiên phát triển bền vững và dẫn đầu các hoạt động sâu rộng nhằm tạo ra một môi trường kinh tế và xã hội bền vững’.


Dưới đây là lần lượt năm kỳ minh họa chương trình truyền thông kiểu mới, lấy cảm hứng từ ngữ dụng học (pragmatics), cho đối tượng học viên đa dạng, từ nhà báo chuyên nghiệp, đến các blogger quan tâm đến kỹ năng truyền thông hiện đại và, nhất là, các doanh nghiệp đang đối phó với tệp khách hàng ngày càng khắt khe và đa dạng. Loạt bài, như nói qua ở trên, sẽ lấy trường hợp truyền thông ở LAS làm ví dụ cụ thể.
Kỳ 1 – Truyền thông thiên về dữ liệu – các khuyết tật khó khắc phục
Kỳ đầu tiên nhằm chỉ rõ đặc điểm của truyền thông truyền thống trong bài, vốn thiên hẳn về dùng dữ liệu, dẫu bài truyền tải thông tin chính xác, đúng đối tượng, dẫu bài (có thể) soạn thông điệp đúng và đủ.
Khi đọc kỹ bài trong đường dẫn của website supelamthao.vn, có thể nhận thấy đây là mẫu truyền thông truyền thống thiên về dữ liệu (data-oriented communication), kiểu truyền thông chú trọng thông tin, dẫn chứng, số liệu, thay vì đi vào chiều sâu của ngữ cảnh, tương tác, và hàm ý xã hội. Dưới đây là năm đặc điểm nổi bật của kiểu truyền thông này trong bài.
Thứ nhất, trọng tâm là thông tin, không phải hành động giao tiếp
Bài tập trung truyền tải các thành tích, số liệu, và chính sách cụ thể của doanh nghiệp như sản lượng, tỷ lệ tái chế, dự án môi trường, định hướng phát triển bền vững.
Đoạn dưới đây cho thấy bài chủ yếu liệt kê thông tin – kết quả – chứng chỉ – định hướng, thay vì tạo tương tác hay lời mời đối thoại:
“Các hoạt động của Supe Lâm Thao luôn tuân thủ và được tổ chức chứng nhận quốc tế cấp chứng chỉ: Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn ISO 9001:2015; Hệ thống quản lý môi trường phù hợp tiêu chuẩn ISO 14001:2015; Hệ thống quản lý An toàn và sức khỏe nghề nghiệp theo tiêu chuẩn ISO 45001:2018”.
Cũng như câu trên, câu sau đây hoàn toàn mang tính truyền đạt thông tin, không hướng tới tạo quan hệ hay tương tác:
“Duy trì và phát triển các loại sản phẩm phân bón, cung cấp dinh dưỡng hoàn hảo cho cây trồng cũng như giảm phát thải khí nhà kính…”
Truyền thông kiểu ấy khiến thông điệp trở thành thông báo (informative) hơn là mang tính tương tác (interactive). Độc giả, nhất là độc giả nông thôn, nhận thông tin nhưng không được “mời gọi” tham gia cuộc đối thoại giá trị, không cảm thấy được “nói chuyện” cùng doanh nghiệp LAS.
Thứ hai, cấu trúc tuyến tính, logic theo kiểu báo cáo
Nội dung được sắp xếp theo trật tự logic mô tả – minh chứng – kết luận, gần với báo cáo kết quả hoạt động hơn là thông điệp truyền thông mang tính thuyết phục ngữ dụng.
Dưới đây là dẫn chứng của cách trình bày theo trình tự “giới thiệu – chứng minh – khẳng định” như báo cáo tổng kết:
“Với giá trị cốt lõi: ● Phát triển xanh… ● Bền vững… ● Vì cộng đồng… ● Đồng hành…”
Đấy là cấu trúc bullet-point điển hình của báo cáo.
Còn đây là diễn đạt dạng tổng kết mục tiêu:
“Supe Lâm Thao đã tự đặt ra cho mình thách thức trở thành một phần của nỗ lực toàn cầu… Supe Lâm Thao đang nỗ lực để đạt được 17 nguyên tắc của Chương trình Phát triển Bền vững”
Các đoạn vừa dẫn phản ánh cấu trúc trình bày cực kỳ tuần tự – logic – báo cáo hóa. Cấu trúc như vậy phù hợp với mục tiêu “truyền đạt”, nhưng thiếu hàm ý “thích ứng với ngữ cảnh giao tiếp”, yếu tố cốt lõi trong ngữ dụng học.
Thứ ba, giọng điệu trang trọng, ít tính nhân văn ngữ cảnh
Giọng điệu bài mang tính chính thống, chuẩn mực, hành chính, nhằm thể hiện uy tín doanh nghiệp.
Sau đây là ví dụ về kiểu ngôn từ mang sắc thái nghiêm túc, tiêu chuẩn ISO, chứng nhận, định hướng chiến lược – tạo khoảng cách với độc giả:
“Là công ty có bề dày truyền thống, Supe Lâm Thao luôn tiên phong với các giải pháp sáng tạo để phát triển nông nghiệp”;
hay:
“Cam kết sâu sắc về môi trường và phúc lợi con người, công ty luôn nỗ lực phát triển cuộc sống bền vững theo nhiều cách khác nhau”.
Hoặc lối viết trang trọng lặp lại như dưới đây phù hợp báo cáo, nhưng thiếu chất đời, thiếu gắn kết cảm xúc.
“Vì mối liên hệ sâu sắc với môi trường, Supe Lâm Thao chấp nhận thách thức trở thành một phần của nỗ lực toàn cầu…”.
Nhìn chung, kiểu viết nêu trên thiếu các dấu hiệu ngữ dụng như lời mời, ẩn dụ ngữ cảnh, vai trò người nghe, khiến thông điệp khó gợi cảm xúc đồng cảm hoặc tạo dựng quan hệ xã hội (social bond) giữa doanh nghiệp và cộng đồng, giữa LAS và nông dân.
Thứ tư, thiếu tương tác ngữ cảnh và ngụ ý xã hội
Các phát ngôn trong bài phần lớn mang nghĩa hiển ngôn (explicit meaning), ít hàm ý (implicature) hay ẩn dụ ngữ dụng (pragmatic metaphor).
Dưới đây là các trích dẫn cho thấy bài nói thẳng mọi điều, từ thành tích đến giá trị, chứng nhận:
“Phát triển xanh: Phát triển vì một nền nông nghiệp xanh, bền vững và thân thiện môi trường”. Cấu trúc này là phát biểu trực tiếp – không ẩn dụ, không hàm ý
Còn câu “Bền vững: Mục tiêu đạt được sự đầy đủ về vật chất…” chỉ nêu định nghĩa mở, không tạo diễn ngôn tương tác
Hay “Supe Lâm Thao đã tự đặt ra cho mình thách thức…” nói rõ ràng, không ẩn ý xã hội.
Nhìn chung, nội dung tuyệt đại đa số là thông tin hiển ngôn, gần như không có tầng nghĩa giao tiếp xã hội, không có ẩn dụ xã hội, lời mời đối thoại hay “khoảng trống diễn giải”.
Cách ấy dễ khiến độc giả chỉ tiếp nhận nội dung bề mặt mà không có “không gian diễn giải”, nơi độc giả cảm nhận vai trò, trách nhiệm và tình cảm của doanh nghiệp với môi trường.
Tựu chung, ít hàm ý ngữ dụng – nghĩa chủ yếu hiển ngôn – là giới hạn lớn nhất của lối truyền thông truyền thống.
Thứ năm, chưa tận dụng sức mạnh của ngữ dụng học, sức mạnh của hành động lời nói và vị thế giao tiếp
Bài chưa khai thác hành động ngôn ngữ (speech act) theo nghĩa ngữ dụng, chẳng hạn, lời cam kết, kêu gọi hay tri ân được diễn đạt như phát ngôn tạo tác động (performative act). Thay vào đó, nó dừng ở mức độ “nói về việc làm” chứ không “thực hiện hành động qua lời nói”.
Dưới đây là minh họa cho thấy bài không có lời kêu gọi, mời, tri ân, hứa hẹn theo nghĩa hành động lời nói, tất cả chỉ mang tính mô tả việc công ty đang làm:
“Bằng cách sử dụng các biện pháp sáng tạo, tiên phong và đột phá… Supe Lâm Thao đang nỗ lực để đạt được 17 nguyên tắc của Chương trình Phát triển Bền vững”
Câu này nói về nỗ lực, nhưng không có hành động lời nói hướng tới độc giả.
Còn câu “Cam kết sâu sắc về môi trường và phúc lợi con người…” dù chứa từ “cam kết”, vẫn không phải hành động hiệu quả (performative) mà là mô tả cam kết.
Nhìn chung, không thấy có câu nào như “Chúng tôi mời cộng đồng cùng tham gia…” hoặc “Chúng tôi xin tri ân…” – vốn là hành động ngôn ngữ tạo tác động.
Tóm lại, bài “Bảo vệ môi trường và hơn thế nữa” của LAS là mẫu mực lối truyền thông theo hướng thông tin hóa – minh chứng hóa, phù hợp với giai đoạn doanh nghiệp muốn khẳng định năng lực.
Khi xét dưới lăng kính ngữ dụng học, ta thấy thiếu vắng các yếu tố ngữ cảnh giao tiếp, hàm ý xã hội, tính tương tác và hành động lời nói, khiến thông điệp dẫu đúng và đủ nhưng chưa “chạm tới” độc giả, chưa tạo hiệu quả giao tiếp ở tầng ngữ dụng.
Nói cách khác, đặc trưng “thiên về dữ liệu” ở đây không chỉ là vấn đề hình thức, mà còn nằm ở giới hạn ngữ dụng: bài truyền tải thông tin chính xác nhưng chưa tạo lập được nghĩa giao tiếp xã hội.
Diễn đàn Nhà báo Môi trường Việt Nam (VFEJ)

>> Đón đọc Kỳ 2 – Khác biệt cơ bản giữ truyền thông dữ liệu với truyền thông ngữ dụng
